Chức năng tế bào beta là gì? Nghiên cứu khoa học liên quan

Tế bào beta là tế bào nội tiết nằm trong đảo Langerhans của tuyến tụy, chịu trách nhiệm sản xuất và tiết insulin để điều hòa glucose máu. Chức năng chính của tế bào beta là cảm biến nồng độ glucose và điều chỉnh tiết insulin tương ứng nhằm duy trì cân bằng nội môi năng lượng.

Giới thiệu về tế bào beta

Tế bào beta là một loại tế bào nội tiết thuộc đảo Langerhans của tuyến tụy, đóng vai trò trung tâm trong điều hòa chuyển hóa glucose. Chúng là nguồn duy nhất tiết ra insulin – hormone duy nhất có tác dụng hạ đường huyết – nên giữ vai trò then chốt trong duy trì cân bằng nội môi.

Ở người trưởng thành, tế bào beta chiếm khoảng 60–80% tổng số tế bào trong đảo tụy. Các tế bào này tập trung chủ yếu ở trung tâm của tiểu đảo, bao quanh bởi các tế bào alpha và delta. Cấu trúc tổ chức này cho phép các tín hiệu nội tiết cận kề được truyền hiệu quả giữa các tế bào.

Theo tài liệu của NCBI – Endocrine Pancreas, chức năng của tế bào beta được định nghĩa không chỉ bởi khả năng tiết insulin, mà còn bởi độ nhạy của chúng với glucose, khả năng phục hồi sau stress chuyển hóa, và mối tương tác với các tế bào đảo khác.

Sinh lý tiết insulin

Insulin được sản xuất và dự trữ dưới dạng các hạt tuyến nội tiết trong bào tương tế bào beta. Khi có tín hiệu kích thích – đặc biệt là glucose tăng sau bữa ăn – insulin được tiết ra theo cơ chế phụ thuộc nồng độ và thời gian. Quá trình tiết diễn ra theo hai pha: pha nhanh (giai đoạn 1) trong 5–10 phút đầu và pha chậm kéo dài sau đó.

Glucose được vận chuyển vào tế bào beta qua kênh vận chuyển GLUT2, sau đó trải qua quá trình phosphoryl hóa nhờ enzyme glucokinase. Sản phẩm chuyển hóa kích thích tăng tỉ lệ ATP/ADPATP/ADP, đóng kênh K+K^+ nhạy ATP, gây khử cực màng tế bào, mở kênh Ca2+Ca^{2+} và thúc đẩy xuất bào insulin.

Sơ đồ chuỗi tín hiệu nội bào trong tiết insulin:

Bước Cơ chế
1 Glucose đi vào tế bào qua GLUT2
2 Phosphoryl hóa bởi glucokinase → tăng ATP
3 Đóng kênh KATPK_{ATP} → khử cực màng
4 Mở kênh Ca2+Ca^{2+} → tăng [Ca2+]i[Ca^{2+}]_{i}
5 Xuất bào hạt insulin ra ngoại bào

Ngoài glucose, các acid béo, amino acid như leucine, các incretin (GLP-1, GIP) cũng có thể kích thích tiết insulin. Một số thuốc hạ đường huyết đường uống như sulfonylurea cũng hoạt động thông qua cơ chế đóng kênh K+K^+ trên màng tế bào beta.

Vai trò sinh học của insulin

Insulin là hormone đồng hóa chủ lực trong cơ thể người, đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy tế bào hấp thu glucose từ máu và điều hòa chuyển hóa carbohydrate, lipid và protein. Thiếu insulin hoặc giảm nhạy cảm với insulin dẫn đến tình trạng tăng đường huyết, làm phát sinh các rối loạn chuyển hóa toàn thân.

Insulin tác động chủ yếu lên ba mô đích chính:

  • Gan: ức chế tân tạo glucose, kích thích tổng hợp glycogen
  • Cơ vân: tăng vận chuyển glucose, tổng hợp protein
  • Mô mỡ: ức chế ly giải mỡ, tăng dự trữ triglyceride

Trên bề mặt tế bào đích, insulin gắn vào thụ thể màng, hoạt hóa chuỗi tín hiệu nội bào qua các phân tử trung gian như IRS, PI3K, Akt. Một trong các kết quả là sự vận chuyển kênh GLUT4 lên màng tế bào để tăng hấp thu glucose. Biểu thức rút gọn của chuỗi tín hiệu này:

InsulinReceptorIRSPI3KAktGLUT4Glucose uptakeInsulin \rightarrow Receptor \rightarrow IRS \rightarrow PI3K \rightarrow Akt \rightarrow GLUT4 \rightarrow Glucose\ uptake

Đáp ứng tế bào beta với glucose

Đặc điểm nổi bật của tế bào beta là khả năng cảm biến và đáp ứng chính xác với sự thay đổi của nồng độ glucose trong máu. Sự tăng nhẹ nồng độ glucose ngoại bào cũng có thể kích hoạt quá trình tiết insulin theo cách tỷ lệ thuận, cho thấy tế bào beta hoạt động như một “bộ cảm biến glucose sinh học”.

Đáp ứng này không chỉ phản ánh tình trạng hiện tại mà còn có tính thích nghi. Khi glucose máu tăng kéo dài (chẳng hạn trong béo phì), tế bào beta có thể tăng khối lượng hoặc số lượng để tiết nhiều insulin hơn – một hiện tượng gọi là "bù trừ chức năng".

Khi khả năng đáp ứng này bị suy giảm, đặc biệt ở người có kháng insulin, tế bào beta phải làm việc quá mức trong thời gian dài, dẫn đến "mệt mỏi" tế bào beta và suy giảm chức năng. Đây là cơ chế chính khởi phát đái tháo đường típ 2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng của tế bào beta với glucose bao gồm:

  • Di truyền (polymorphism các gen như TCF7L2, KCNJ11)
  • Tuổi tác (chức năng beta giảm theo tuổi)
  • Viêm mãn tính và stress oxy hóa
  • Thói quen ăn uống, thiếu vận động

Chức năng nội tiết phối hợp với các tế bào đảo khác

Tế bào beta hoạt động trong một hệ vi môi trường nội tiết phức tạp, nơi chúng tương tác với các loại tế bào khác trong đảo tụy như tế bào alpha, delta, PP và epsilon. Sự tương tác chéo giữa các tế bào này thông qua tín hiệu cận tiết và paracrine đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa toàn diện glucose máu.

Tế bào alpha tiết glucagon – hormone có tác dụng tăng đường huyết, hoạt động đối kháng với insulin. Trong khi đó, tế bào delta tiết somatostatin – một peptide ức chế tiết cả insulin lẫn glucagon. Tế bào PP tiết pancreatic polypeptide còn tế bào epsilon tiết ghrelin. Sự cân bằng giữa các tín hiệu này là nền tảng cho sự ổn định nội môi năng lượng.

Bảng tóm tắt các loại tế bào đảo tụy và hormone tiết ra:

Loại tế bào Hormone chính Tác dụng
Beta Insulin Hạ đường huyết, đồng hóa
Alpha Glucagon Tăng đường huyết, dị hóa
Delta Somatostatin Ức chế insulin và glucagon
PP Pancreatic polypeptide Điều hòa chức năng tụy ngoại tiết
Epsilon Ghrelin Kích thích cảm giác đói

Rối loạn chức năng tế bào beta trong bệnh lý

Suy giảm chức năng hoặc số lượng tế bào beta là yếu tố cốt lõi trong sinh bệnh học của bệnh đái tháo đường. Trong đái tháo đường típ 1, tế bào beta bị phá hủy bởi cơ chế tự miễn dịch, trong khi ở típ 2, tế bào beta bị “kiệt sức” do phải tăng tiết insulin kéo dài để bù lại tình trạng kháng insulin ở mô ngoại vi.

Các cơ chế chính gây rối loạn chức năng bao gồm:

  • Glucotoxicity: nồng độ glucose cao mạn tính làm tổn thương chức năng và cấu trúc tế bào beta
  • Lipotoxicity: tích tụ acid béo tự do làm giảm biểu hiện gen điều hòa insulin
  • Stress oxy hóa và viêm: thúc đẩy apoptose tế bào beta
  • Yếu tố di truyền: biến dị gen như TCF7L2, HNF1A ảnh hưởng biệt hóa và tồn tại beta-cell

Ở giai đoạn sớm của đái tháo đường típ 2, chức năng beta thường suy giảm chọn lọc ở pha tiết insulin đầu tiên. Điều này làm mất khả năng “kìm” tăng glucose sau ăn, dẫn đến tăng glucose sau ăn và mất kiểm soát đường huyết toàn diện.

Phương pháp đánh giá chức năng tế bào beta

Đánh giá chức năng tế bào beta là bước quan trọng trong chẩn đoán sớm đái tháo đường và theo dõi đáp ứng điều trị. Do không thể lấy mô tụy dễ dàng, các chỉ số đánh giá thường dựa trên mức insulin hoặc C-peptide huyết tương sau kích thích bằng glucose hoặc meal test.

Các phương pháp phổ biến bao gồm:

  • OGTT: đo glucose, insulin và C-peptide tại các thời điểm sau uống 75g glucose
  • HOMA-B: chỉ số ước lượng chức năng beta từ glucose và insulin lúc đói, theo công thức:
    HOMA-B=20×InsulinGlucose3.5HOMA\text{-}B = \frac{20 \times Insulin}{Glucose - 3.5}
  • Hyperglycemic clamp: tiêu chuẩn vàng đánh giá tiết insulin theo thời gian

Một số marker sinh học mới như proinsulin/insulin ratio, microRNA huyết tương, hoặc exosome từ beta-cell đang được nghiên cứu để đánh giá chức năng beta không xâm lấn và nhạy hơn.

Tiềm năng phục hồi và thay thế tế bào beta

Trong điều kiện tổn thương mạn tính, tế bào beta có thể bị mất chức năng hoàn toàn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy vẫn có khả năng phục hồi một phần nếu can thiệp đúng giai đoạn. Ngoài ra, việc thay thế tế bào beta cũng là hướng nghiên cứu chiến lược trong điều trị đái tháo đường.

Các hướng đang được triển khai:

  1. Liệu pháp tế bào gốc: cảm ứng tế bào iPSC biệt hóa thành beta-cell chức năng
  2. Cấy ghép đảo tụy: từ người hiến tạng hoặc nguồn nhân tạo (xenotransplantation)
  3. Liệu pháp gen: chuyển gen điều hòa biệt hóa beta vào tế bào alpha hoặc ống tụy

Harvard Stem Cell Institute đã phát triển thành công beta-cell chức năng từ iPSC với khả năng tiết insulin đáp ứng glucose. Xem thêm tại: hsci.harvard.edu.

Ứng dụng lâm sàng và triển vọng điều trị

Hiểu rõ chức năng và cơ chế tổn thương của tế bào beta giúp xây dựng chiến lược điều trị tối ưu hóa chức năng tụy nội tiết. Hiện nay, nhiều thuốc không chỉ điều chỉnh đường huyết mà còn giúp bảo tồn hoặc cải thiện hoạt động của tế bào beta.

Một số nhóm thuốc có tác động lên tế bào beta:

Nhóm thuốc Ví dụ Tác dụng trên beta-cell
GLP-1 receptor agonists Exenatide, Liraglutide Tăng tiết insulin phụ thuộc glucose, giảm apoptosis
DPP-4 inhibitors Sitagliptin, Linagliptin Kéo dài tác dụng của GLP-1, bảo vệ beta-cell
Thiazolidinediones Pioglitazone Giảm đề kháng insulin, giảm gánh nặng cho beta-cell

Tương lai, các liệu pháp điều hòa miễn dịch, vaccine phòng đái tháo đường típ 1 hoặc chỉnh sửa gen tế bào beta có thể trở thành giải pháp phòng ngừa và điều trị lâu dài.

Tài liệu tham khảo

  1. NCBI – Endocrine Pancreas Physiology
  2. Cell – Beta-cell biology in diabetes
  3. PMC – Beta-cell failure in type 2 diabetes
  4. Nature Medicine – Stem-cell-derived beta cells
  5. Harvard Stem Cell Institute – Beta-cell creation

Các bài báo, nghiên cứu, công bố khoa học về chủ đề chức năng tế bào beta:

NGHIÊN CỨU CHỨC NĂNG TẾ BÀO BÊTA, ĐỘ NHẠY INSULIN Ở NGƯỜI TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG KHU VỰC HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Nghiên cứu chức năng tế bào bêta, độ nhạy insulin, kháng insulin bằng phần mềm HOMA2 đã được nhiều tác giả lựa chọn vì sự chính xác và có thể thực hiện với cỡ mẫu nghiên cứu lớn. Tại Việt Nam, số liệu công bố sử dụng phần mềm HOMA2 nghiên cứu chức năng tế bào bêta, độ nhạy insulin, kháng insulin ở người tiền đái tháo đường (ĐTĐ) còn hạn chế. Để làm cơ sở cho các nghiên cứu rộng hơn ở các quần thể ...... hiện toàn bộ
#độ nhạy insulin #đái tháo đường #chức năng tế bào bêta
Tác động của bổ sung thuốc sitagliptin lên tình trạng kháng insulin, chức năng tế bào bêta ở bệnh nhận đái tháo đường týp 2 đang dùng thuốc uống hạ đường máu
TẠP CHÍ Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 - - 2018
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của bổ sung thuốc sitagliptin lên tình trạng kháng insulin, chức năng tế bào bêta ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đang dùng thuốc uống hạ đường máu. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu so sánh tình trạng kháng insulin, chức năng tế bào bêta bằng HOMA2 trước và sau bổ sung thuốc sitagliptin vào các thuốc uống hạ đường máu khác ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Tất cả b...... hiện toàn bộ
#Đái tháo đường týp 2 #sitagliptin #kháng insulin #chức năng tế bào bêta
Lộ trình đạt được y học chính xác trong điều trị bằng thuốc đối với bệnh tiểu đường Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 65 - Trang 1830-1838 - 2022
Điều trị bằng thuốc cho bệnh tiểu đường hiện nay phần lớn dựa trên các thuật toán. Ngoại trừ các trường hợp bệnh tim mạch hoặc bệnh thận, khi các thuốc ức chế đồng vận chuyển natri-glucose 2 và/hoặc các agonist thụ thể peptide-1 giống glucagon được chỉ định, việc lựa chọn điều trị chủ yếu dựa trên các rủi ro tổng quát về tác hại hoặc tác dụng phụ và chi phí, chứ không phải dựa trên lợi ích tiềm nă...... hiện toàn bộ
#y học chính xác #bệnh tiểu đường #chỉ số khối cơ thể #chức năng tế bào beta #độ nhạy insulin
Phổ chức năng ngoại tiết và nội tiết (tế bào Beta) của tuyến tụy trong viêm tụy vôi hóa nhiệt đới Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 33 - Trang 417-421 - 1990
Các dấu hiệu của chức năng ngoại tiết của tuyến tụy (trypsin miễn dịch hóa miễn dịch) và chức năng tế bào Beta nội tiết (insulin huyết tương và C-peptide trong một bài kiểm tra dung nạp glucose uống) đã được nghiên cứu trên 40 đối tượng mắc viêm tụy vôi hóa nhiệt đới [bảy bệnh nhân không tiểu đường, bảy bệnh nhân bị rối loạn dung nạp glucose và 26 bệnh nhân tiểu đường (tiểu đường do vôi hóa trong ...... hiện toàn bộ
#viêm tụy vôi hóa nhiệt đới #chức năng ngoại tiết #chức năng nội tiết #tế bào Beta #rối loạn dung nạp glucose #tiểu đường
Didymin bảo vệ tế bào beta tụy bằng cách tăng cường chức năng ty thể trong tình trạng rối loạn dung nạp glucose do chế độ ăn nhiều chất béo Dịch bởi AI
Diabetology & Metabolic Syndrome - Tập 16 - Trang 1-16 - 2024
Sự tiếp xúc kéo dài với axit béo tự do (FFA) trong huyết tương dẫn đến tình trạng dung nạp glucose kém (IGT), có thể tiến triển thành bệnh tiểu đường type 2 (T2D) nếu không có các can thiệp kịp thời và hiệu quả. Chế độ ăn nhiều chất béo (HFD) dẫn đến tình trạng viêm mãn tính và stress oxy hóa, làm suy giảm chức năng tế bào beta tụy (PBC). Trong khi Didymin, một glycoside flavonoid được chiết xuất ...... hiện toàn bộ
#Didymin #tế bào beta tụy #chế độ ăn nhiều chất béo #chức năng ty thể #dung nạp glucose kém
Khả năng phân biệt của các chỉ số chức năng tế bào beta dựa trên OGTT đơn giản để dự đoán prediabetes và tiểu đường loại 2: nghiên cứu CODAM Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 60 - Trang 432-441 - 2016
Kỹ thuật kẹp hyperglycaemic và IVGTT thường xuyên không phù hợp để đánh giá chức năng tế bào beta (BCF) ở các nhóm lớn. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khả năng phân biệt của các chỉ số BCF dựa trên OGTT đơn giản trong việc dự đoán prediabetes (tức là rối loạn đường huyết lúc đói và/hoặc rối loạn dung nạp glucose) và tiểu đường loại 2. Tình trạng chuyển hóa glucose được đánh giá bằn...... hiện toàn bộ
#tiểu đường loại 2 #prediabetes #chức năng tế bào beta #OGTT #kháng insulin #chỉ số phân phối
Sự tạo glucose ở ruột có phải là yếu tố chính trong sự thay đổi sớm của cân bằng glucose sau phẫu thuật bắc cầu dạ dày? Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 759-762 - 2011
Năm 2008, Troy et al. đã giả thuyết rằng trong điều kiện nhịn ăn, sự tạo glucose ở ruột sản sinh ra mức glucose trong tĩnh mạch cửa, kích thích cảm biến cửa thay đổi độ nhạy insulin và cơ chế này góp phần vào tác động của phẫu thuật bắc cầu dạ dày Roux-en-Y (RYGB) đối với bệnh tiểu đường loại 2 (T2DM). Trong một bài báo gần đây, Kashyap et al. (Int J Obes 34(3):426-471, 2010) đã trích dẫn giả thuy...... hiện toàn bộ
#sự tạo glucose ở ruột #phẫu thuật bắc cầu dạ dày #bệnh tiểu đường loại 2 #độ nhạy insulin #chức năng tế bào beta
Tổng số: 7   
  • 1